Căn nguyên của phát triển

10:59 SA @ Chủ Nhật - 28 Tháng Tám, 2016

Bất cứ ai quan tâm đến vấn đề phát triển kinh tế của một quốc gia đều có thể kể một loạt yếu tố ảnh hưởng đến mức độ và tốc độ phát triển: vốn vật thể, vốn con người, công nghệ, thể chế, v.v. Những yếu tố ấy hẳn là quan trọng nhưng, khoảng10-15 năm trở lại đây, một cuộc tranh luận đã diễn ra trong giới kinh tế về thành tố sâu xa nhấtcủa phát triển, cụ thể là: có yếu tố nào căn bản hơn, đàng sau những yếu tố nói trên? Thắc mắc này là tất yếu vì lẽ, chẳng hạn như, dù xác định được vai trò của tích lũy vốn và tiến bộ công nghệ trong phát triển kinh tế, vẫn còn có thể hỏi: Thế thì tại sao có sự chênh lệch rộng lớn giữa các xã hội về tốc độ tích lũy và “cải tiến”?

Có ba trường phái chính trong cuộc tranh luận này. Trường phái thứ nhất, tạm gọi là phái địa lý, mà thủ lĩnh là nhà kinh tế Jeffrey Sachs. Trường phái thứ hai, thường được gọi là trường phái hội nhập, mà kinh tế gia tiêu biểu là David Dollar. Trường phái thứ ba là trường phái thể chế, thường gắn liền với tên Daron Acemoglu và Dani Rodrik.

I. Địa lý là tất cả?

Thứ nhất là địa lý. Lý thuyết này được nhiều tác giả ngoài kinh tế (Montesquieu, Jared Diamond) nói đến từ rất lâu. Jeffrey Sachs (đại học Columbia) và các đồng sự có ý kiến rằng vị trí nhiệt đới, không có bờ biển, và sự tuỳ thuộc vào “hàng hóa” (nhất là tài nguyên thô, thay vì dịch vụ) là những yếu tố trực tiếp cản trở phát triển. Không phải tình cờ mà hầu hết các nước chậm phát triển đều ở vùng nhiệt đới. Địa lý là yếu tố quyết định của khí hậu, của tài nguyên thiên nhiên, của nhiều thứ bệnh tật, của tổn phí giao thông và vận chuyển. Chướng ngại địa lý cũng ngăn cản sự lan truyền kiến thức, phát minh, từ những vùng tiến bộ đến những vùng hậu tiến, qua đó địa lý có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất nông nghiệp và “chất lượng của tài nguyên con người”.

William Easterly (cũng ở đại học Columbia) và đồng sự là Ross Levine là tiêu biểu cho những người chống đối mạnh mẽ “giả thuyết địa lý” của Sachs. Họ nhìn nhận khí hậu nhiệt đới, mùa màng, và bệnh tật có ảnh hưởng đến phát triển kinh tế, song theo họ thì ảnh hưởng đó chỉ là gián tiếp, qua ảnh hưởng đến thể chế. Không thể xem chúng là căn nguyên của (sự chậm) phát triển được, họ khẳng định.

Trả lời Easterly và Levine, Sachs dùng mô hình kinh lượng của chính hai người này để chứng minh rằng bất kỳ thể chế tốt hay xấu, hễ nước nào nhiều sốt rét thì không tăng trưởng nhanh được. Sachs đắc thắng kết luận: địa lý vẫn là căn bản nhất! Song, khách quan mà nhìn thì Sachs chỉ chứng minh sốt rét là quan trọng. Từ đó sẽ là một bước nhảy vọt niềm tin để cho rằng địa lý nói chung là quan trọng.

Tuy là người chủ xướng yếu tố “địa lý” nhưng Sachs nói rõ là ông không hề cho rằng mỗi quốc gia đều có một “định mệnh” không thể tránh (không ai có thể di dời một quốc gia!). Ông chỉ rõ: Một quốc gia không có bờ biển thì vẫn có thể xây đường, đào kênh ra biển, một quốc gia vì khí hậu mà bị sốt rét thì vẫn có thể diệt trừ sốt rét. Chính vì thế mà Sachs cũng là người cực lực biện hộ cho viện trợ quốc tế (để xây đường, diệt sốt rét…), cho rằng ngọai viện là hữu ích, thậm chí tối cần cho phát triển.

Sachs cũng nhìn nhận là nhiều quốc gia miền ôn đới, và không có những bất lợi về địa lý (ví dụ như các nước Bắc Phi ven Địa Trung Hải, các nước ở châu Mỹ La Tinh...) mà vẫn chậm phát triển. Đối với những nước này, Sachs quay sang các yếu tố “xã hội”.

II. Tiếp cận hội nhập

Trường phái thứ hai, dẫn đầu là David Dollar (kinh tế gia cao cấp của Ngân hàng Thế giới, đã có thời làm việc ở Việt Nam) thì khẳng định rằng căn nguyên phát triển của một quốc gia là khối lượng thương mại giữa quốc gia ấy và thế giới. Nói rõ hơn, tiếp cận này cho rằng thương mại quốc tế là đầu tàu của gia tăng năng suất, tiến bộ công nghệ và nâng cao thu nhập. Quan điểm này thường được gọi là “quan điểm hội nhập” vì nó gán tầm quan trọng bậc nhất cho sự hội nhập thị trường. Những tranh luận (mà ai cũng biết) về “toàn cầu hoá”, hiển nhiên, là tranh luận về sự đúng hay sai của quan điểm hội nhập.

Cũng nên phân biệt hai dạng khác nhau của trường phái này. Dạng thứ nhất (có thể gọi là dạng “ôn hòa”) cho rằng thương maị sẽ là một nguồn tăng trưởng sau khi những nền móng thể chế đã được thiết lập. Hầu như mọi nhà kinh tế học đều chấp nhận ý kiến này. Dạng thứ hai thì “cực đoan” hơn, cho rằng thuơng maị/hội nhập là yếu tố căn bản nhất quyết định tốc độ tăng trưởng của một quốc gia kém mở mang. Chính dạng “cực đoan” này là chủ trương của các công trình của Sachs và Warner (1995) và Dollar và Kraay (2004)

III. Thể chế là quan trọng nhất?

Quan điểm thứ ba xoay quanh “thể chế” – đặc biệt là vai trò của quyền sở hữu (property rights) là luật định (rule of law). Theo quan điểm này (dẫn đầu là Douglass North (1990)) thì cái quan trọng là “luật chơi” trong xã hội. Luật chơi này được định (công khai hay tiềm ần) bởi các chuẩn mực ứng xử và khả năng mà các chuẩn mực này tạo ra những động cơ kinh tế thích hợp cho con người. Hai nhân vật chính của trường phái thể chế hiện đại là Daron Acemoglu và Dani Rodrik, tuy nhiên, giữa hai người này cũng có nhiều khác biệt đáng kể.

1. Daron Acemoglu

Daron Acemoglu (giáo sư kinh tế ở MIT) đồng ý với Sachs rằng có một tương quan giữa điạ lý và phát triển: không phải tình cờ mà hầu hết các nước kém phát triển đều ở vùng nhiệt đới. Tuy nhiên, theo Acemoglu, điều này chưa phải là bằng cớ điạ lý là lý do chính của tình trạng kém mở mang. Ông đưa nhiều ví dụ cho thấy một số quốc gia miền nhiệt đới mà hiện nay rõ là nghèo thì trong quá khứ đã có lúc khá phát triển (thậm chí so với các quốc gia ôn đới thời ấy) vậy thì cái nghèo hiện nay của họ đâu phải vì địa lý?

Acemoglu sử dụng một phương pháp khá mới lạ (và cực kỳ công phu) để khám phá căn nguyên của phát triển: ông so sánh ảnh hưởng của chế độ thực dân trên các vùng đất bị trị: từ Bắc Mỹ, Mỹ La Tinh, đến Úc, châu Phi, v.v. Ngòai những khác biệt về khí hậu, thổ nhưỡng, tài nguyên thiên nhiên, mật độ dân số… Acemoglu phát hiện rằng nơi nào mà “thực dân” tạo được một thể chế rập khuôn mẫu quốc (như ở Mỹ, Canada, hoặc Úc, và ở vài thuộc điạ khác mà thể chế của thực dân chỉ nhằm khai thác tài nguyên địa phương) thì sau khi bị thực dân đô hộ, nơi đó phát triển hơn là trước khi bị đô hộ.

Tất nhiên, Acemoglu không ngây thơ đến độ cho rằng chính sách thực dân là có lợi cho phát triển. Chinh xác hơn, ông nhận thấy những nơi nào (vì khí hậu ôn hòa, dân chúng “dễ bảo”) thì thực dân (hầu hết là từ Âu châu) đến định cư đông, có thời giờ áp đặt thể chế đã thành công ở mẫu quốc, và do đó các nơi ấy phát triển nhanh chóng (Mỹ, Canada, Úc…). Trái lại, những nơi nhiều bệnh tật, khí hậu không hợp với người châu Âu, hay “thổ dân” chống đối mạnh mẽ, thì thực dân chỉ đến, khai thác tài nguyên cho nhanh, rồi bỏ đi mà không thiết lập thể chế cho nơi ấy.

Acemoglu nghiêng về “trường phái thể chế” vì những phát hiện như thế. Acemoglu cũng nhận định rằng địa lý có thể ảnh hưởng đến thể chế mà thực dân Tây phương đem áp đặt ở thuộc điạ. Chẳng hạn như nếu thuộc điạ chỉ là để khai thác khoáng sản thì thể chế cai trị phải là khác thể chế ở các thuộc địa “loại” khác (như đồn điền).

2. Dani Rodrik

Dani Rodrik (một giáo sư kinh tế gốc Thổ Nhĩ Kỳ, hiện dạy ở Harvard) thì có ý khác. Ông khẳng định rằng các nghiên cứu kinh lượng học đã cho một kết quả rõ ràng: chất lượng của thể chế là quan trọng hơn bất cứ yếu tố nào khác. Theo ông thì “địa lý”, chẳng hạn, tuy ảnh hưởng trực tiếp đền mức thu nhập, nhưng có ảnh hưởng gián tiếp mạnh hơn, qua ảnh hưởng của nó đến thể chế. Tương tự, ngoại thương có ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng thể chế, nhưng nó không có ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập.

Tuy nhìn nhận đóng góp của Acemoglu và đồng sự, Rodrik và các người theo ông cho rằng Acemoglu đã lẫn lộn (hay mập mờ) về “nguồn gốc thuộc địa”. Theo Rodrik, công trình của Acemoglu chỉ là một cách kiểm chứng giả thuyết về sự quan trọng của thể chế, kết luận của nó không thể được xem như bằng cớ là thuộc điạ có ảnh hưởng tích cực cho phát triển. Rodrik và cộng sự đặt câu hỏi: nếu quả “kinh nghiệm thuộc địa” là yếu tố quyết định mức thu nhập thì làm sao giải thích sự chênh lệch thu nhập giữa những nước chưa bao giờ là thuộc điạ của Tây phương? Nói khác đi, độc giả của Acemeglu có thể lầm tưởng rẳng đó là một thuyết về “nguồn gốc thuộc điạ của thể chế”. Rodrik nhấn mạnh: Đúng là thuộc địa có ảnh hưởng phần nào, nhưng nó không thể là ảnh hưởng chính yếu, ở bất cứ nơi nào. Hơn nữa, Rodrik lập luận, nhìn thật kỹ thì “thuyết thuộc điạ” của Acemoglu có khác gì “thuyết địa lý” của Sachs đâu?

IV. Đánh giá

Như đã nói ở phần dẫn nhập, ba tiếp cận vừa lược duyệt là tiêu biểu của xu hướng nghiên cứu kinh tế trong những năm gần đây. Tuy cuộc tranh cãi này là cực kỳ lý thuyết, chỉ một nhóm nhỏ trong giới kinh tế là thích thú theo dõi, nó có nhiều hậu quả quan trọng vì những nhân vật chính (Sachs, Dollar, Acemoglu, Rodrik…) lại là những “khuôn mặt lớn” trong những thảo luận về chính sách phát triển và thương mại hiện nay. Một trong những bài học thực tế rút ra từ cuộc tranh luận này liên hệ đến vai trò của ngọai viện. Người tin vào địa lý (như Sachs) thì cho rằng viện trợ nước ngoài là thiết yếu cho phát triển kinh tế; người không tin (như Easterly) thì cho rằng viện trọ là vô ích, thậm chí còn có hại. Giả thuyết của Acemoglu cũng có nhiều hệ luận liên quan đến dân chủ và trình độ giáo dục (cụ thể: dân trí có cần thiết cho dân chủ hay không?)

Tuy nhiên, như Rodrik ghi nhận: Dù có tìm được “căn nguyên tối hậu” của sự giàu nghèo của một quốc gia, chưa chắc chúng ta có thể rút ra những bài học rõ ràng về chính sách. Ví dụ, xác định rằng “pháp trị” (rule of law) là một nhân tố của phát triển không có nghĩa là chúng ta biết cách để kiện toàn nó trong hoàn cảnh cá biệt của một quốc gia. Một ví dụ nữa, dù xác định được rằng “địa lý là cốt yếu” thì cũng không có nghĩa chủ nghĩa “địa lý tất định” (geographic determinism) là đúng. Xác định ấy chỉ cho thấy những chướng ngại mà người làm chính sách phải vượt qua.

Tuy giả thuyết “địa lý là tất cả” của Sachs bị nhiều chống đối nhưng có lẽ phần lớn lý do là Sachs chỉ nghĩ đến những đặc tính địa lý thông thường như khí hậu, thổ nhưỡng, địa hình.. Nhưng “địa lý” còn gồm “địa chính trị” nữa. Một nước nhỏ mà vì số phận phải nằm kề một nước khổng lồ thì dù có nhiều thuận lợi về các phương diện khác cũng khó tránh vòng cương tỏa – về văn hóa, kinh tế – của người láng giềng lớn. Và chính vòng cương tỏa ấy đặt ra những ràng buộc nhất định mà các tiếp cận khác (hội nhập, thể chế) nhấn mạnh. Nhìn từ góc cạnh này, tiếp cận thể chế và tiếp cận điạ lý không phải là không có điểm tương đồng.

Trần Hữu Dũng
Dayton, 26/12/2010

Nội dung liên quan

  • Bài học lịch sử

    04/08/2019Phạm QuỳnhLịch sử không chỉ có tác dụng giáo dục; nó còn khích lệ. Nó làm nguôi ngoai, đem lại sự bình tâm; nó xoa dịu những nôn nóng cũng như những âu lo và cung cấp chỗ dựa cho niềm tin và hy vọng. Giữa những ưu tư nặng nề trước các khó khăn hiện tại, nó đưa lại sự tĩnh tâm thư thái khi thanh thản chiêm ngưỡng quá khứ vì dường như ta được tham dự vào sự bất tận của thời gian và vĩnh hằng của muôn vật. Nó là một phương thuốc tuyệt vời chống lại sự nản lòng và bi quan.
  • Sự thật về mô hình phát triển của Trung Quốc

    20/04/2015Văn NgọcPierre Cohen và Luc Richard xuất thân là nhà báo và nhà văn đã từng sống ở Trung Quốc và biết tiếng quan thoại, hiểu biết rộng về kinh tế, với cặp mắt quan sát sắc sảo của mình, họ đã đi vào từng ngóc ngách của đời sống xã hội Trung Quốc để tìm hiểu một thực tế vô cùng tế nhị và phức tạp để viết một cuốn «La Chine sera-t-elle notre cauchemar?» (Ed. Mille et Une Nuit – Paris 2005, tái bản 5-2008) đầy ắp thông tin và dày công phân tích nhằm chỉ ra những khuyết tật trong mô hình phát triển hiện nay của Trung Quốc...
  • Bài học sau cùng

    24/06/2014Bùi Quang MinhTrước khi vào thành, nhà hiền triết ngồi nghỉ trên một bãi cỏ ở ngoại thành, nói với học trò của mình: "Mười năm ngao du, các con đều đã trở thành kẻ sĩ học rộng hiểu nhiều, lúc này đây, sự học sắp kết thúc ta sẽ giảng cho các con bài học sau cùng"...
  • Những bài học từ kết quả bỏ phiếu đường sắt cao tốc

    25/06/2010TS. Nguyễn Sỹ PhươngBất cứ quốc sách nào thành công đều cần đến cơ sở khoa học, và thực tiễn - cũng chính là thước đo của chân lý, nhưng sẽ thất bại nếu sử dụng nó như một công cụ có thể biến hoá phục vụ cho ý chí chủ quan, dù với động cơ tốt đẹp bao nhiêu.
  • Những bài học chiến tranh

    28/04/20108.000 tấn bom Mỹ ném xuống Miền Bắc Việt Nam, giết hại gần 1 triệu người, cuộc chiến của Mỹ tại Việt Nam thật thảm khốc và ác liệt, biết bao người con ra đi không trở về, biết bao ngôi làng bị tàn phá và biết bao trẻ em sinh ra bị dị tật… Tuy chiến tranh đã qua đi, và chúng ta cần từng bước khắc phục những hậu quả, hàn gắn những vết thương lòng và xây dựng Việt Nam anh dũng năm xưa thành Việt Nam phát triển trong tương lai.
  • Tìm kiếm mô hình phát triển

    17/04/2010Nguyễn Trần BạtTrong một thời gian dài, vấn đề lựa chọn các mô hình kinh tế được đặt ra một cách sôi nổi, không chỉ ở Việt Nam mà ở hầu hết các nước đang phát triển và các quốc gia chuyển đổi. Không những thế, việc lựa chọn các mô hình kinh tế sao cho phù hợp với những đặc điểm riêng của từng quốc gia...
  • Tư duy kinh tế thời bao cấp và phá rào, “những bài học lịch sử từ những mũi đột phá”

    31/03/2010Đặng PhongSau Tư duy kinh tế Việt Nam – Chặng đường gian nan và ngoạn mục 1975-1989, xuất bản năm 2008, tái bản năm 2009 với nhiều bổ sung và tên mới Tư duy kinh tế Việt Nam 1975-1989 – Nhật ký thời bao cấp (Nxb Tri Thức, 476 trang), sử gia kinh tế Đặng Phong đã cho ra tiếp theo ‘Phá rào’ trong kinh tế vào đêm trước Đổi mới (Nxb Tri Thức 2009, 534 trang).
  • Bài học Kinh doanh

    09/08/2009Nguyễn Tất ThịnhTrí khôn được giành ngày càng nhiều hơn vào kinh doanh trên Thương trường - nơi rất khác Chiến trường - ở đây là cuộc cạnh tranh không có điểm kết về tính ưu trội của các Giá trị trong Sản phẩm/ Dịch vụ, cách tạo ra nó và phương thức cung cấp...
  • Bài học của tổ tiên

    28/05/2009Phạm QuỳnhCó những kẻ sẽ nói với các con rằng đó là những khái niệm lỗi thời, những quan niệm của một thời đã qua, rằng con người hiện đại cần phải là một con người cá nhân chủ nghĩa toàn vẹn, hay một người xã hội chủ nghĩa hoàn chỉnh nghĩa là hắn ta chỉ phải chăm lo cho hạnh phúc cá nhân và riêng rẽ hay, ngược lại phải làm việc vì hạnh phúc của toàn nhân loại, và gia đình với tổ quốc, đấy là những điều nhảm nhí cũ kỹ chỉ để thoả mãn những đầu óc câu nệ của đám tiểu tư sản ù lì trong những định kiến phản động của chúng. Những kẻ sẽ nói với các con như vậy, thì đấy là những người cuồng tưởng nguy hiểm hay những tên hề xấu xa. Chớ mà nghe theo họ...
  • Rồng, hổ Đông Á và vấn đề sử dụng bài học kinh nghiệm về nhân tố văn hóa và con người

    22/04/2009PGS.TS. Hồ Sĩ QuýViệt Nam đang cất cánh và vẫn chưa mất cơ hội để hóa rồng. Việc lựa chọn những quyết sách, phương thức và bước đi trong phát triển trên cơ sở học tập kinh nghiệm thành công của mô hình Đông Á, như lời tư vấn nhiệt thành của các chuyên gia Harvard, rõ ràng là có ý nghĩa quyết định. Tuy nhiên, kinh nghiệm dù hay đến mấy cũng mới chỉ là hành trang để phát triển. Chỉ riêng hành trang chưa đủ giúp người tìm đường tới được cái đích mà anh ta cần đến.
  • Văn hóa và mô hình phát triển phổ biến

    15/12/2007Ths. Khuất Duy DũngTác giả đã lý giải những khuynh hướng văn hoá đòi hỏi sự thay đổi mang tính sáng tạo đối với mô hình phát triển hiện tồn và tin rằng, chừng nào mà văn hoá đích thực còn tồn tại thì nó vẫn là nơi chứa đựng những giá trị người và đó là cơ sở cho một sức sống mới...
  • Tổng kết thực tiễn: Một bài học của Bác Hồ

    03/02/2006Thái DuyThành công hoặc thất bại, Bác Hồ đòi hỏi trước hết lãnh đạo các cấp phải xác định trách nhiệm cá nhân của mình thì mới tổng kết thành công...
  • xem toàn bộ