Quyền lực của thi ca, quyền uy của thi sĩ

05:26 CH @ Thứ Tư - 30 Tháng Tám, 2017

Ai đó đã viết, nhà chính trị thường chú ý đến cái tất yếu, đến logic, cái cần phải làm, Đối với nhà văn, quan trọng không phải chỉ "mặt trước của tấm huân chương" mà còn cả mặt sau của nó, quan trọng không phải chỉ là chiến thắng mà còn cả cái giá của những mất mát hy sinh để giành được nó. Đây cũng là nội dung của kỳ 2 cuộc trò chuyện với nhà thơ Hải Như.

>> Kỳ 1: Nhà văn: Xin đừng tự trói buộc mình

Không cổ súy chiến tranh

Nhà báo Thu Hà: Thưa nhà thơ Hải Như, lâu nay chúng ta vẫn tự hào có một nền văn học, thi ca thời chiến rực rỡ? Chẳng phải có một thời những bài văn, bài thơ đã tiếp thêm sức mạnh, thôi thúc một thế hệ cầm súng chiến đấu với quân thù đó sao?

Nhà thơ Hải Như: Chúng ta mới có văn học chiến công chứ chưa có văn học chiến tranh; mới có thơ ca trống trận chứ chưa có thơ ca nói về nỗi đau của con người. Còn rất nhiều điều chúng ta vẫn nợ nhân gian.

Tôi tin rằng bất cứ ai cũng hiểu, chiến tranh- dù bên nào thắng thì nhân dân hai bên cũng đều thua thiệt, đều mất mát khổ đau như nhau. Chiến thắng của bên này là khổ đau mất mát của người mẹ, người cha, người vợ và những đứa con của phía bên kia. Vậy hà cớ gì cổ súy chiến tranh. Thơ văn không thể cổ súy chiến tranh, mà phải ngăn chặn chiến tranh, cảnh báo cái xấu xa hủy hoại xã hội, con người.

Nhân đây, xin chia sẻ cùng độc giả Tuần Việt Nam những suy nghĩ của tôi.

"Chiến tranh là gì?

Là nước mắt - chia ly, là máu đổ

Là "Nhất tướng công thành vạn cốt khô

Thời của thế hệ chúng tôi không nên dùng mỹ từ "Thời hoa lửa"
...

(trích trong bài Lời liệt sĩ thành cổ Quảng Trị)

Chính vì vậy,

"Đừng thi vị đường đầy hoa ra mặt trận

Mẹ già ta cần ta cạnh bên người

Suốt đời mẹ đã làm nàng Tô Thị

Chiếc áo trấn thủ chồng, mẹ ấp ủ tàn hơi.
"

(trích trong bài Tô Thị)

Khi đọc bài thơ Pháo đài của thi hào Nguyễn Du viết ra khi nhận chức Cai bạ (tương đương với chức Tuần phủ) tỉnh Quảng Bình sau những năm dài Trịnh Nguyễn phân tranh, tôi đã giật mình về tư tưởng nhân văn trong câu thơ chữ Hán "Nhĩ lai bất quí sát nhân công" Dịch nghĩa ra là: "Từ nay việc chém giết người không còn khuyến khích". Câu thơ viết bằng chữ Hán theo thể thơ cổ mà sao không cũ, vẫn hiện đại! Câu thơ như một tiếng reo vui của người trong cuộc, nói lên nguyện ước của dân chúng hai bờ sông Gianh phải chịu bao lầm than điêu đứng của chiến tranh.

Tôi tin khi dịch bài thơ chữ Hán Pháo đài của Nguyễn Du ra tiếng nước ngoài sẽ chinh phục được bạn đọc về tư tưởng hiện đại của nhà thơ Việt sống cách đây trên 200 năm, cảnh báo chiến tranh khiến con người không còn nhân tính.


"Nhà văn phải nghĩ với đảng"

Nhà báo Thu Hà: Ông thường nói về quyền uy của thi sĩ. Vậy chúng ta nên hiểu về quyền uy này như thế nào cho đúng?

Nhà thơ Hải Như: Cuộc đời đòi hỏi nhà thơ, nhà văn không dừng lại ở tài gieo vần, câu chữ làm "pháp sư ngôn ngữ" mà đòi hỏi thi sĩ, văn sĩ phải vươn lên làm nhà tư tưởng. Người làm thơ phải ý thức được quyền lực thơ ca và quyền uy thi sĩ. Thơ, văn tồn tại truyền tụng từ đời này sang đời khác chính nhờ "cái lõi" - hạt nhân tư tưởng bài thơ chứa đựng.

Tôi quan niệm quyền uy thi sĩ là nói lên sự thật, giúp các nhà lãnh đạo nhận ra sự thật. Thời Trung Hoa cổ nhà thơ Tào Tùng đã viết câu thơ: "Nhất tướng công thành vạn cốt khô" để lên án chiến tranh.

Từ đầu thập niên 70 của thế kỷ trước tôi đã nhận thức về "quyền uy thi sĩ" như thế này:

Sống chẳng dễ đâu

Và yêu càng không dễ

Sống và yêu trên trái đất này

Sống thế nào đây? Yêu thế nào đây?

Nhờ thơ tin yêu ơi

Xin nhà thơ cho cuộc đời chỉ thị.



Nhà báo Thu Hà: Theo ông, cái thiếu nhất của các nhà thơ, nhà văn là gì?

Nhà thơ Hải Như: Cái luôn luôn thiếu của người làm thơ là trau dồi kiến thức. Để trở thành thi sĩ đâu chỉ có tâm hồn, bài thơ đầu tay (premierjet) lóe sáng mà phải tự thân rèn luyện suốt đời.

Walt Whitman- nhà thơ Mỹ (1819-1892) trong bài thơ "Bài hát chính tôi" đòi hỏi mình nắm bắt "những biến cố mới nhất, những khám phá, những phát minh mới nhất, những xã hội, những tác giả cổ kim" một cách thường nhật.

Nhà báo Thu Hà: Khi so sánh văn học Việt với một số nền văn học thế giới, nhiều người không khỏi tự ti về nền văn học còn bé nhỏ, khiêm nhường của Việt Nam. Nhà thơ quan niệm về sự lớn - nhỏ này như thế nào?

Nhà thơ Hải Như:Tôi quan niệm, không có văn học nước lớn và văn học nước nhỏ. Nhân loại chỉ có một nền văn học vì con người, diễn giải bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau nói lên khát vọng được quyền sống, quyền yêu thương trong mái nhà chung nhân loại.

Nếu mỗi con người là một vũ trụ riêng. Hạnh phúc của loài người là con người không ai giống ai. Văn học là khoa học khám phá lòng người. Người làm văn học - các nhà văn, nhà thơ có sứ mạng cao quí giúp con người nhận diện được mình qua những trang sách, giúp con người tự vấn lương tâm, thanh lọc mình nhằm hướng thiện trên bước đường tiến hóa của nhân loại. Con người ngày càng làm chủ kỹ thuật hiện đại nhưng mãi mãi không làm chủ được lòng mình. Văn học giúp con người tránh được "cơ tâm", cân bằng tình cảm, nâng đỡ tâm hồn khi suy sụp, "cứu rỗi" con người không sa vào cái ác.

Văn học đích thực tự thân đã hội nhập

Nhà báo Thu Hà: Gần đây người ta bàn nhiều về văn học hội nhập. Quan điểm của nhà thơ về chuyện này?

Nhà thơ Hải Như:Theo tôi về kinh tế thì Việt Nam đúng là cần phải đặt vấn đề hội nhập với thế giới, còn về văn học tôi cứ nghĩ không cần đặt vấn đề hội nhập.

Nhà báo Thu Hà: Ý của nhà thơ là văn học thì không cần hội nhập, chúng ta cứ đóng cửa làm thơ, làm văn với nhau sao?

Nhà thơ Hải Như: Không phải vậy. Văn học đích thực tự thân đã mang tính hội nhập, cũng như với chính trị thì cần định hướng nhưng văn học thì không. Bởi từ khi có văn học thì văn học đã mang tính định hướng rồi: chủ nghĩa nhân văn. Nói theo một nghĩa phổ biến, văn học là nhân học. Tôi nhớ trong sổ tay tôi có ghi một câu thơ cho chính mình: "Dưới vòm trời này đâu cũng một trái tim người".

Nhà báo Thu Hà: Trong khi các tác phẩm văn học nước ngoài chiếm lĩnh phần lớn thị trường sách ở Việt Nam thì không ít người Việt Nam sống và làm việc ở nước ngoài phàn nàn, gần như hiếm hoi tìm thấy tác phẩm văn học Việt Nam được xuất bản ở các nước khác... Vậy chúng ta cần phải làm gì đó để giúp văn học Việt Nam sớm góp mặt với văn đàn thế giới.

Nhà thơ Hải Như: Bà chúa thơ nôm Hồ Xuân Hương khi sáng tác cách nay hai thế kỷ chắc không đặt vấn đề "hội nhập" như một số nhà văn hôm nay.

Tôi còn nhớ, đầu những năm 2000 thơ Hồ Xuân Hương của Việt Nam đã được giới thiệu với bạn đọc Hoa Kỳ. Dịch giả là một nhà thơ có tiếng của Mỹ, giáo sư John Balaban đến từ đại học Carolina. Ông đã bỏ ra hàng chục năm sang Việt Nam đi sâu tìm hiểu văn học cổ dân tộc ta. Và ông đã phát hiện ra nữ sĩ Hồ Xuân Hương "có một không hai" trong vòm trời thơ nhân loại. Ông đã say sưa bỏ ra nhiều năm khảo sát và chuyển ngữ những bài thơ của bà chúa thơ nôm sang tiếng Anh.

Nhà báo Hàm Châu đã chứng kiến, chỉ trong vòng tám tháng (10/2000 đến 6/2001), 20 nghìn bản Spring Essence the Poem of Ho Xuan Huong đã bán hết veo khiến nhiều nhà thơ Mỹ sửng sốt - thậm chí cả "ghen tị".

Nói như vậy để thấy, tác phẩm thơ, văn có chất lượng thì tự thân nó đã mang tính hội nhập rồi.

Nhà báo Thu Hà: Xin hỏi ông câu hỏi cuối, nếu nhìn lại hành trình làm báo và làm thơ của mình, điều gì khiến ông day dứt nhất?

Nhà thơ Hải Như:Tôi day dứt vì chưa làm được gián quan đúng nghĩa. Tôi tự nghĩ chúng tôi công ít, tội nhiều. Nếu chính trị gia có mắc sai lầm, đó không chỉ lỗi của họ mà những lỗi đó một phần cũng bởi các nhà thơ, nhà văn đã trốn tránh sự thật, không dám nói, không dám can gián.

Nhà báo Thu Hà: Cảm ơn nhà thơ Hải Như đã dành cho Tuần Việt Nam cuộc trò chuyện thẳng thắn, cởi mở. Cảm ơn quí vị độc giả đã theo dõi cuộc trò chuyện của chúng tôi. Năm Quí Tỵ mang theo vận hội mới đến với mỗi con người trên mảnh đất Việt Nam thương yêu. Đúng như nhà thơ Hải Như đã chia sẻ, hành trang cho sự cất cánh của văn đàn Việt Nam là bản lĩnh dám vượt qua những suy nghĩ thiệt hơn tầm thường để dám viết ra những hiện thực trong đời sống đương đại. Xin kính chúc nhà thơ và quí vị độc giả sức khỏe, niềm vui, thành công và hạnh phúc.

Thu Hà (thực hiện)
Vài nét về nhà thơ Hải Như:

Nhà thơ Hải Như sinh năm 1923, tên thật là Vũ Như Hải, quê thành phố Nam Định.

Năm 1942 ông là học sinh trường Cao đẳng sư phạm Đỗ Hữu Vị (Hà Nội). Ông tham gia cách mạng trước năm 1945 trong Hội truyền bá Quốc ngữ ở Hà Nội. Năm 1946, ông vào quân đội, tham gia lớp đào tạo báo chí cách mạng Việt Nam đầu tiên mang tên Huỳnh Thúc Kháng ở chiến khu Việt Bắc.

Năm 1948 nhà thơ Hải Như đảm nhiệm Thư ký tòa soạn báo Sông Lô sau chuyển sang báo Vệ quốc Quân thuộcTổng cục chính trị. Sau năm 1954, ông làm Biên tập văn nghệ tại báo Cứu quốc; Phó tổng biên tập báo Giác ngộ (TPHCM).

Đại hội văn nghệ lần thứ I tại Việt Bắc (1948), nhà thơ Xuân Diệu viết: "Kể sao cho hết những tài năng mới, Bửu Tiến, Trần Đăng, những nhà báo: Xuân Thủy, Hải Như".

Hòa thượng Thích Đức Nghiệp, Phó pháp chủ Hội đồng chứng minh giáo hội phật giáo Việt Nam từng nhận xét về thơ của ông: "Thơ anh không giống, không lẫn với ai", an nhiên nói thẳng điều anh muốn nói với những tứ thơ độc đáo làm bàng hoàng người đọc bằng ngôn ngữ "đàm đạo" giữa đời, không bác học mà bình dân, phải xứng danh thơ hiện đại, hiện đại có hồn và truyền cảm mãi mãi".
LinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Cuộc đời gửi lại trong thơ

    29/08/2019Lưu Khánh ThơXuân Quỳnh (1942-1988) là một gương mặt độc đáo trong nền thơ Việt Nam hiện đại. Từ giã trần gian đã hơn 20 năm nhưng thơ chị vẫn luôn có mặt trong hành trang tinh thần của nhiều thế hệ bạn đọc...
  • Vài suy nghĩ về cái Tôi trong thơ từ cách nhìn Phật Giáo

    16/11/2017Nguyễn Điệp HoaTưởng rằng có cái TÔI tuyệt đối, cái tôi đích thực, đó là một trong những ảo tưởng lớn nhất của loài người. Nhưng xem ra, căn bệnh này ở những người làm nghệ thuật và các nhà thơ còn nặng hơn nhiều so với những người khác...
  • Đọc lại văn thơ Đông Kinh nghĩa thục

    02/03/2017Nguyên AnTrong kho tàng văn chương - văn hoá Việt Nam mấy trăm năm nay, có lẽ không có một nhóm tác giả, một tao đàn, một phong trào nào tồn tại ngắn ngủi mà lại có tiếng vang tốt đẹp, lâu dài như phong trào Đông Kinh nghĩa thục.
  • Trả lại tên cho một nhà thơ tiền chiến đất Thăng Long

    02/09/2010Hoàng Thư NgânTôi cầm trên tay tập thơ “Hương sắc Yên hòa” do phường Yên hòa-quận Cầu giấy xuất bản nhân kỷ niệm 10 năm thành lập CLB thơ (1995-2005). Không có gì đáng nói nhiều về tập thơ này, vì nó cũng như bao tập thơ khác sinh ra từ rất nhiều câu lạc bộ thơ tương tự ở các phố phường Thủ đô gần đây, nếu không có phần 2 của tập thơ nhan đề: “Hương xưa”(trang 187). Thoáng một chút thú vị , vì trong phần này có nhắc đến một người mà tên đã trở thành tên một đường phố của Hà nội : “Hoa-Bằng”...
  • Thơ là gì

    25/11/2009Phạm Quỳnh"Không biết rằng ngược xuôi bôn tẩu như vậy có ăn thua gì, chính là phải định tĩnh tinh thần, kết ngưng trí tuệ mới được. Ở người nào, ở vật nào là không có thơ? Nhưng cái hồn thơ ấy nó thâm trầm u ẩn, không phải bộc lộ ra ngoài, phải có chí, phải chịu khó mới tìm ra được.
  • Thơ ta thơ tây

    03/07/2009Phạm QuỳnhNhư muốn vẽ bức tranh thì con mắt phải nhìn trong cảnh vật mà thu lấy cái hình ảnh, rồi mới tìm cách truyền thần ra giấy ra lụa. Muốn làm bài thơ cũng vậy, trong trí phải tưởng tượng ra một cái cảnh, hoặc là cảnh thiên nhiên, hoặc là cảnh trong tâm giới, rồi dùng những âm hưởng thích đáng mà gọi, mà kêu nó lên, khiến cho người nghe cũng phảng phất tưởng tượng như thế. Hai đàng cùng là vẽ cả, một đàng là vẽ cách trực tiếp, một đàng là vẽ cách gián tiếp, nhưng đều muốn khêu gợi ra mối tư tưởng cảm tình trong tâm trí người ta vậy.
  • Trò chuyện với nhà thơ Lão Thực

    09/12/2006Vũ Ngọc TiếnCó một thời ấu trĩ, hễ ai nhắc đến Hiện sinh còn bị chuốc vạ vào thân, đã kìm hãm sự phát triển văn học Việt Nam trong nửa cuối thế kỷ XX. Đáng tiếc, bước vào đổi mới, có một số người, để tỏ ra mình cấp tiến hơn các bạn viết, đã cố gồng cây bút lên cho có vẻ Hiện sinh, mà có khi Hiện sinh là gì họ còn chưa hiểu hết, sách Hiện sinh chắc gì đã đọc cho nghiêm túc. Ngược lại, có không ít người lại tỏ ra dị ứng, ác cảm với Hiện sinh. Triết học nào lập ra cũng vì con người, hướng dẫn con người đi tìm đến cội nguồn của hạnh phúc...
  • Nhà thơ trong thiên văn học

    11/10/2006
  • Yếu tính của thơ

    29/06/2006Hầu hết chúng ta ngày nay đều đồng nhất thơ với văn vần. Đối với chúng ta, một bài thơ là một trước tác được sắp xếp theo các dòng chữ có một mẫu hình xác định về nhịp điệu, và bày tỏ những cảm tưởng và ấn tượng cá nhân. Chúng ta phân biệt thơ với văn xuôi, là loại ngôn ngữ của hành ngôn và trước tác thông thường. ...
  • Thơ là giọng, là phong cách của tư tưởng

    07/04/2006Thiếu chúng ta, thế giới vẫn hoàn chỉnh. Một sự thật không thể khoan thứ. Nhà thơ đáp lại bằng cách nổi loạn, muốn chứng tỏ rằng không phải thế. Do lòng tự đại bị tổn thương, niềm tự hào ương ngạnh hoặc nhu cầu tuyệt vọng, nhà thơ kinh niên tranh cãi với sự thật, và một điều kinh ngạc xảy ra: một sự thật khác được tạo nên, giống như một thành tố mới có phần đối nghịch với điều không thể khoan thứ.
  • Thi ca như là hàng hoá và dịch vụ

    20/03/2006Ngô Tự LậpKhi coi thơ là hàng hoá hoặc dịch vụ, tôi biết là có nguy cơ sẽ bị các nhà thơ, các nhà phê bình, và cả những người yêu thơ - những người mà tôi không chỉ kính yêu mà còn luôn hướng tới với niềm hy vọng - phản bác, thậm chí nguyền rủa. Tôi còn biết rằng nguy cơ sẽ tăng gấp đôi nếu tôi coi thơ là cả hai thứ ấy...
  • Thơ hay là cái chết của thời gian

    28/09/2005Ngô Tự LậpVề thơ như là một tổ chức ngôn ngữ quái đản. Tiểu luận Thơ là gì là một bài viết rất đặc trưng cho phong cách của ông Phan Ngọc: nhiều tâm huyết nhưng cũng nhiều võ đoán. Suốt bài viết với giọng cực kỳ tự tin này lấp lánh đây đó những nhận xét sâu sắc bên cạnh những từ ngữ và thuật ngữ cố tình lạ tai gây cảm giác khó chịu: “Quái đản”, tính thao tác”, “sự thức nhận”… (Tôi xếp vào loại này cả những từ to tát không cần thiết khác như vượt gộp", "thao tác luận"... rất nhiều trong các bài viết của ông). Mặc dù thú vị, bài viết này, theo tôi, có nhiều điểm chưa thích đáng, cả trong các nhận định lẫn trong thao tác khoa học.
  • Thơ ca như một thứ tôn giáo

    21/10/2005Nhà thơ Trần Anh TháiKín đáo và ngại ngùng bởi không muốn nói nhiều về mình và tập thơ Trên đường vừa xuất bản, nhưng nhà thơ Trần Anh Thái tỏ ra cởi mở hơn khi đề cập đến thơ ca và công việc sáng tác của người nghệ sĩ. Dưới đây là cuộc trò chuyện của phóng viên với nhà thơ...
  • Nhà thơ - người thợ lành nghề hay nhà tiên tri?

    08/09/2005Những lý thuyết về thơ từ những thời kỳ xa xưa đều xoay quanh ý niệm nhà thơ như người thợ thủ công khéo léo, như nhà tiên tri đầy cảm hứng, hay như một sự kết hợp thế nào đó của cả hai. Trong thế giới cổ đại, từ “thơ” nguyên nghĩa là “chế tác”, và bao gồm mọi hình thái sáng tạo sinh sôi của con người – chế tác những cái hũ cũng như chế tác những bài thơ. Nhưng nó sớm mang ý nghĩa nghệ thuật “chế tác” văn chương, sự trình bày có tính chất tưởng tượng về hành động, tính cách, và cảm xúc con người – thông qua từ ngữ. “Sự chế tác” như vậy bao gồm những tác phẩm kịch, ...
  • Thơ là gì ?

    30/09/2005Phan NgọcTrong quá trình xây dựng bộ "Phong cách học cấu trúc tiếng Việt", tôi bắt buộc phải định nghĩa lại các khái niệm, bởi vì các khái niệm trước đây về phong cách học là dựa trên nhận thức cảm tính về cái đã có, còn công trình của tôi mang tính thao tác, phải tìm cái lý do, cái sở dĩ của các hiện tượng đã được xem là hiển nhiên....
  • Trong những đường hầm của thi ca

    29/08/2005Ngô Tự LậpCòn các nhà thơ, giống như tất cả mọi người, họ đang đi vào những đường hầm biệt lập, trong đó họ sáng tạo ra những bài thơ mới cho những độc giả mới của họ. Đó là lý do duy nhất để họ tồn tại. Đó cũng là niềm hy vọng làm một điều có ích. Chỉ điều đó thôi cũng đã đem lại cho họ sức mạnh để không gục ngã...
  • xem toàn bộ