Về cái thời chúng ta đang sống

04:19 CH @ Thứ Sáu - 14 Tháng Bảy, 2017

Cái thời ấy thế mà cũng đã hơn 20 năm, trong tên gọi Đổi mới. Dài hơn hai lần chống Pháp. Dài hơn hai lần cả nước chống Mỹ. Hơn hai thập niên đất nước chia cắt... Những thời ấy, có lúc là ngàn cân treo sợi tóc - nhưng cả dân tộc cùng chung lo, cùng chịu đựng, cùng nhất tề xông lên, nhất tề đồng khởi... Còn bây giờ - là trăm mối lo toan. Mỗi biến động lớn nhỏ của đời diễn ra ở quanh ta, hoặc ở bất cứ nơi nào trên thế giới là trực tiếp đến với từng ngôi nhà, từng căn hộ, từng cá nhân riêng lẻ. Không bom đạn trên đầu, mà bối rối trong óc và bồn chồn trong lòng. Một cuộc sống sôi sục, cựa quậy trong những chuyển đổi.

1

Trước hết, đó là sự chuyển đổi từ sự chia đôi thế giới, sự đối lập giữa hai phe, với yêu cầu đặt ra cho cả dân tộc và cho riêng từng con người là phải giành chiến thắng cho một phía; là tăng cường thường trực tính chiến đấu; là sự nắm vững, quán triệt, nâng cao tính giai cấp và tính đảng; là sự kiên định lập trường, quan điểm Mác Lênin và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; là yêu cầu không được nghiêng ngả dao động, mơ hồ lẫn lộn địch ta; là sự rạch ròi giữa tư sản - vô sản, giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản; là sự ngăn chặn con đường phát triển tư bản chủ nghĩa bằng mọi cách - kể từ một gánh hàng rong trên đường phố, hoặc mảnh vườn thuộc diện 5% đất canh tác được chia cho mỗi hộ; là phải biết phân biệt chủ nghĩa tập thể có đủ mọi phẩm chất ưu việt với chủ nghĩa cá nhân trong mọi biểu hiện xấu xa của nó, vân vân... và vân vân. Thay vì tất cả các biểu hiện đó, hiện hữu suốt trong cả một thời dài, hơn 40 năm, bây giờ là một ứng xử trái ngược - đó là nguyên tắc hòa hợp, hội nhập, cộng sinh, “chung sống hòa bình” không phân biệt chế độ chính trị và chính kiến cá nhân, kể cả những đối tượng từng là kẻ thù sinh tử trước đây.

Bây giờ thì tất cả, không những có thể là bạn (nếu họ muốn) mà còn có thể là đối tác làm ăn, tin cậy. Còn trước đó, cả một thời dài là thế giới chia đôi, chỉ có ta và thù, chỉ có một khẩu hiệu, một mục tiêu: “Ai thắng ai?”, trong một cuộc chiến quyết tiêu diệt tận gốc những kẻ thù bằng xương bằng thịt là đế quốc - phong kiến - bù nhìn - tay sai, cùng tất cả những ai thuộc tầng lớp hữu sản (tư hữu) cho đến những kẻ thù vô hình là chủ nghĩa cá nhân mà bất cứ ai, trừ tầng lớp vô sản (gồm công nhân chính hiệu và bần cố nông), cũng đều có, nếu không có thì cũng phải biết cách phân thân ra mà tìm... Tóm lại ngoài chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa tư bản, các tàn dư phong kiến thì chủ nghĩa cá nhân cũng là một căn bệnh nan y, khó chữa, khiến từng người, với sự giúp đỡ hoặc chỗ dựa là tập thể (chi bộ, chi đoàn, công đoàn, đơn vị, cơ quan...) phải quyết tâm “quét cho sạch”, “diệt tận gốc”; có thế, sự nghiệp cách mạng mới tiến lên được.

Từ một tình thế lưỡng phân, chia đôi, trước câu hỏi “Ai thắng ai?” đặt ra gay gắt cho cả cộng đồng và cho từng người kéo dài suốt trên 30 năm, cho đến một thế giới cộng sinh, chủ trương cùng chung sống, giao lưu, hợp tác, giúp đỡ...; từ một chủ trương khép kín đến một chủ trương mở rộng cửa chào đón bất cứ ai có thiện tâm, thiện ý... đó là một chuyển đổi 180 độ, nó đòi hỏi tư duy và ứng xử của con người phải thích ứng triệt để; và tất nhiên chuyển động này là không dễ cho những ai đã quen với môi trường sống cũ, với cuộc chiến đấu cũ. Và đó là nét cơ bản của thực trạng hôm nay, từng gây nên những sửng sốt ngơ ngác cho không ít người, và khó tránh những va chạm gay gắt trong hệ ý thức, nhận thức và quan niệm sống của các cá nhân, và các cộng đồng lớn nhỏ của xã hội.

Chuyển đổi đó đòi hỏi con người phải thích ứng, nếu không nói là phải chủ động đón nhận. Một chuyển đổi, sau những thức nhận (hoặc giác ngộ) về con đường cả dân tộc đã đi qua, với chiến công lớn là thắng hai đế quốc to nhưng lại cũng đi kèm với không ít vấp váp, lầm lạc trong phát triển xã hội làm hao tổn sức người và làm chậm bước đi lịch sử.

“Không có bạn bè nào thường xuyên, không có kẻ thù nào thường xuyên mà chỉ có quyền lợi quốc gia là thường xuyên”. Ý tưởng sâu sắc này của Thủ tướng Anh Wilston Churchill (1874-1965) trong nhiều chục năm trước đây là xa lạ với chúng ta, bỗng trở thành sự thật hiển nhiên vào cuối thế kỷ XX. Cuối cùng thì dân tộc, vẫn chỉ dân tộc là hiện hữu trường tồn cùng con người trong cái nhân loại có đến hơn hai trăm quốc gia và hàng ngàn chủng tộc này. Còn cấu trúc xã hội thì thay đổi, biến động theo yêu cầu của đấu tranh giai cấp trong từng thời kỳ, và theo sự phát triển của hoạt động sản xuất, khoa học, công nghệ. Trước đây nhiều chục năm, cho đến cuối thế kỷ trước, mỗi người Việt Nam sinh ra, trong giấy khai sinh, hoặc trong các bản khai lý lịch, đều có khoản ghi về thành phần, là địa chủ, phú nông, hoặc trung, bần- cố nông; là tư sản, hoặc tiểu chủ, tiểu thương hoặc tiểu tư sản... Từ những bản khai mà biết cách chọn đường vào nghề, vào đời.

Bìa tập thơGiai phẩm mùa thu

Hoặc là cực kỳ hanh thông, từ đời cha đến đời con, từ đời anh đến đời em, nếu là một lý lịch đẹp. Hoặc là vô cùng trắc trở, từ đời nọ qua đời kia, nếu là một lý lịch xuất thân, hoặc có dính dáng với tầng lớp hữu sản, giàu có gắn với bóc lột; hoặc không kiên định lập trường vô sản mà dính vào “xét lại”, hoặc “nhân văn- giai phẩm” - một cụm từ, hoặc hai khái niệm từng gây bao kinh hãi cho cả một thời. Bây giờ, cũng chỉ mới gần đây thôi, trong kỷ nguyên hội nhập, khi có cái nhìn rộng ra thế giới thì mới thấy cấu trúc của xã hội hiện đại, ở bất cứ nơi nào, về cơ bản, cũng là gồm 5 bộ phận cư dân trong quan hệ hợp tác, và tương tác lẫn nhau. Đó là lớp người hoạt động chính trị, lớp công chức hành chính, lớp doanh nhân trong các khu vực sản xuất và lưu thông, tầng lớp trí thức, và những người lao động chân tay có kỹ năng nghề nghiệp.

Nhưng cộng sinh cũng có nghĩa là phải học cách chung sống với cái xấu, cái ác, trước khi nói đến việc đấu tranh cải tạo hoặc tiêu diệt nó, có thể là một công việc lâu dài, gian khổ. Cuộc sống yên bình, hết chiến tranh, bom đạn mà hiểm họa trong đời sống dường như lại nhân lên gấp bội, và rình rập con người khắp mọi lúc, mọi nơi. Khó mà kể hết những chuyện thường ngày - nạn bạo hành gia đình, ngược đãi trẻ con, gian lận thi cử, tai nạn giao thông, tệ nạn xã hội, đồng tiền mất giá, giá cả leo thang... Mọi hiểm họa đến với từng gia đình, từng con người, trong từng bữa ăn, từng giấc ngủ. Diệt hết chim chóc thì côn trùng sinh sôi.

Diệt hết thú rừng, cho vào các quán nhậu thì tự nhiên mất cân bằng. Hết hổ lớn, thì Sách đỏ của ta còn gì mà khoe, và diệt hết hổ con thì chuột nhớn chuột bé hoành hành. Đốt rừng, đào núi, lấp hồ thì sinh thái hỏng và tai nạn tự nhiên ngày càng khốn nạn. Thế giới tự nhiên trong tồn tại vĩnh hằng của nó cần được sống thân thiện với con người. Với tự nhiên còn thế, huống hồ là con người với con người. Sau chủ trương vô thần đưa tới sự phá bỏ đình chùa, cản trở hoạt động của các tôn giáo, bây giờ đến lúc phải coi trọng mọi niềm tin, mọi tín ngưỡng của nhân dân, bằng sự phục hồi gần như vô điều kiện mọi thứ lễ hội... bởi tôn giáo chẳng còn là “thuốc phiện” mà là cõi thiêng trong thế giới tâm linh của con người, của cõi người...

Vậy là sau một phân cách đơn giản và triệt để: Ai thắng ai? Hoặc là ta, hoặc là địch, nhằm chia các cộng đồng lớn-nhỏ ra hai tuyến đã đến với ta sự hội tụ, chung sống, nương tựa vào nhau mà tồn tại; một nương tựa không chỉ có mặt thuận mà còn là cả mặt nghịch, để cho sự vật vẫn cứ luôn luôn là sự đối sánh giữa hai mặt tốt-xấu, thiện-ác, mà sự phân biệt và giành phần thắng cho cái tốt, cái thiện là vô cùng vất vả; không chỉ tùy thuộc vào năng lực quản lý của các giới chính quyền, mà còn tùy thuộc vào chất lượng sống, trình độ văn hóa của các tầng lớp cư dân; trong đó đóng vai trò quan trọng là hệ thống giáo dục ở học đường; là hoạt động của các giới văn hóa, khoa học, văn học, nghệ thuật, mà vai trò trung tâm là các tầng lớp trí thức, là giới trí thức trong xã hội.

2

Sau chuyển đổi từ sự chia tách, phân cách đến hội nhập, cộng sinh, là một chuyển đổi khác, cũng không kém tầm vóc: đó là từ cộng đồng sang cá nhân; với một quan niệm mới: cá nhân mạnh thì cộng đồng mới mạnh; cá nhân được khẳng định thì sự khẳng định vai trò cộng đồng mới được bảo đảm. Xin không đi quá sâu vào lịch sử để xem xét mối quan hệ cá nhân- cộng đồng trong xã hội phong kiến lấy Nho giáo làm nền tảng, đưa tới sự bóp nghẹt cá nhân, hủy diệt cá tính trong mọi vòng kim cô: tam cương ngũ thường, tam tòng tứ đức - đã in sâu vào máu mọi thế hệ Kẻ Sỹ. Sự ra đời của giai cấp tư sản và cuộc cách mạng tư sản trên phạm vi toàn thế giới đã lật đổ mọi uy lực của thế quyền và thần quyền, mà đem lại một giải phóng lớn cho xã hội - là giải phóng cá nhân, cho họ biết cái hạnh phúc được tự do, trước hết là tự do thân thể, và những thứ gọi bằng hạnh phúc mà con người sinh ra ở đời đều có quyền được hưởng, tất nhiên là trong những giới hạn mà lịch sử, và lịch sử đấu tranh giai cấp cho phép.

Đến thời hiện đại, chủ nghĩa thực dân áp đặt sự thống trị lên thế giới người da màu, ở cả ba lục địa, biến các xã hội tiền tư bản thành xã hội thuộc địa; nhưng ngay trong xã hội thuộc địa là xã hội được kiến lập theo mô hình phương Tây, thì dẫu với tất cả các tội lỗi nó gây ra, vẫn cứ có những khoảng sống và khoảng sáng văn minh nhiều lần hơn xã hội phong kiến chuyên chế; không những hết những “ngục văn tự”, mà cũng chưa thấy người viết nào phải vào tù vì một áng văn chương - trừ văn học cách mạng bí mật, gắn với hoạt động cũng phải bí mật của các nhà Nho - chí sĩ, hoặc chiến sĩ cộng sản. Đó là điều giúp ta hiểu vì sao, ngay trong xã hội thuộc địa, vào nửa đầu thế kỷ XX, sinh hoạt văn hóa- tinh thần và nền văn chương- học thuật Việt Nam đã đạt được những thành tựu có thể nói là kỳ diệu - để có chữ Quốc ngữ, phong trào báo chí - xuất bản, Thơ mới, văn học hiện thực và những công trình biên khảo, phê bình, nghị luận sáng giá.

Tất cả bức tranh ngoạn mục nói trên có nguyên nhân gốc rễ là ở sự tiếp xúc với văn minh phương Tây, trong đó lõi cốt là sự giải phóng cá nhân, với những phân tích rất hay như của Hoài Thanh trong bài Tựa: Một thời đại trong thi ca đặt ở đầu Thi nhân Việt Nam.

Dĩ nhiên khi đất nước còn bị nô lệ, khi nhân dân còn trong tăm tối, nghèo khổ thì việc đòi quyền cá nhân cho một lớp người mới sinh ra trong đời sống đô thị - những cô Mai không chịu làm lẽ; những cô Nhung đòi quyền tái giá; những kiểu và cách yêu khác nhau trong Xuân Diệu, Nguyễn Bính; quyền được buồn, được cô đơn trong Huy Cận, Chế Lan Viên... xem ra là có vẻ lạc lõng. Nhưng dẫu là lạc lõng, nó vẫn là một hiện hữu, tồn tại, báo hiệu sự ra đời một chủ thể mới, dẫu còn èo uột, một hình thái xã hội mới, một phương thức sản xuất mới dẫu chỉ là manh nha, nhưng vẫn nhiều lần cao hơn, văn minh hơn chế độ phong kiến trung cổ. Sự hình thành cái cá nhân và nhu cầu giải phóng cá nhân này vừa mới cất lên được tiếng nói của nó trong văn chương lãng mạn từ 1925 đến 1945, thì sau 1945 - do yêu cầu cách mạng và do hoàn cảnh chiến tranh kéo dài, và tiếp đó, do một định hướng phát triển xã hội không thuận theo quy luật nên bị phê phán và vùi dập trong hơn 40 năm.

Cố nhiên trong buổi đầu tiếp xúc với cách mạng, từ trong bóng tối của xã hội cũ bước ra, cái cá nhân vừa mới hình thành đã bị choáng ngợp trước sức mạnh và vẻ đẹp của cộng đồng, mà theo cách nói quen thuộc của một thời, đó là Đoàn thể: “Đoàn thể đã tái tạo chúng tôi, và trong bầu không khí mới của giang sơn, chúng tôi, những nạn nhân của thời đại chữ “tôi”, hay muốn gọi là tội nhân cũng được, chúng tôi thấy rằng đời sống riêng của cá nhân không có nghĩa gì trong đời sống bao la của Đoàn thể” (Hoài Thanh) (1). Nhưng rồi, cùng với thời gian, theo sự xiết chặt của hệ tư tưởng chính thống, trong bối cảnh một cuộc chiến khốc liệt giải phóng dân tộc và trong kiên trì con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, cái cá nhân dần dần bị dồn ép và mất hết đất đai cho sự tồn tại, rồi trở thành đối tượng của sự chuyên chính của Đoàn thể qua rất nhiều vụ, việc lớn nhỏ, trong đời sống chính trị cũng như trong văn chương, học thuật... Thời Đổi mới và hội nhập là thời khởi động trở lại vai trò cá nhân, sự tôn trọng cá nhân; và với chuyển động này, cái cá nhân dần dần được hồi sức và bù đắp sinh khí, để trở thành động lực mới cho sự phát triển, trên tất cả các phương diện của đời sống vật chất và tinh thần.

Lần đầu tiên sau hơn nửa thế kỷ vai trò các doanh nhân được tôn vinh, kể từ khởi động đầu tiên là sự tôn trọng quyền tư hữu (sau một thời gian dài bị xóa sổ, để thay cho công hữu). Tiếp đó là sự khuyến khích việc làm giàu cho bất cứ ai muốn và có khả năng làm giàu - tất nhiên một cách chính đáng; và hẳn cũng không thiếu một tỷ lệ làm giàu bất chính đã phải (hoặc còn chưa bị) ra tòa; là cách nghĩ dân có giàu thì nước mới mạnh, chứ không phải là sự tự mãn với một cái lý lịch nghèo hèn “ba đời khốn nạn”. Và khi đã hết tâm lý kỳ thị sự giàu có, khi đã biết gắn cái nghèo với sự hèn, khi quyền tư hữu được pháp luật tôn trọng - về phương diện vật chất, thì trong đời sống tinh thần, cái riêng của mỗi cá thể mới có quyền tồn tại, và cần được tìm đến như một vị trí, một tư thế trong cộng đồng, từ đó đem lại sự sống động và phong phú các phong cách riêng trong sáng tạo văn chương- nghệ thuật.

3

Chuyển đổi thứ ba, đó là sự nới rộng các mối giao lưu, từ hẹp sang rộng, từ chủ trương bế quan tỏa cảng, khép kín đối với mọi nền văn minh khác mình, buộc phải mở cửa cho văn minh phương Tây xâm nhập vào nửa sau thế kỷ XIX; và từ “phe” (trong một thế giới chia đôi) mà hòa vào một thế giới đang tan băng, để đến với những mục tiêu mà cả nhân loại cùng theo đuổi, và thoát ra khỏi thế cô lập cục bộ với nhân loại, trong nửa cuối thế kỷ XX. Từ một nước nông nghiệp lạc hậu hàng nghìn năm, sau khi giành được độc lập ta đã tiến hành công cuộc xây dựng đất nước trong hoàn cảnh chiến tranh. Là nước thuộc thế giới thứ ba, lại lâm vào hai cuộc chiến khốc liệt quá dài, trong một thế giới chia đôi, ra khỏi chiến tranh với rất nhiều thương tích, lại hướng theo một mô hình xã hội sai lầm, không thuận với quy luật, nên bước đi của dân tộc bị chậm rất nhiều, so với khu vực. Còn so với các nước tiền tiến thuộc văn minh tư bản, thì sự thấp thua là nhiều trăm năm.

Trong hai cuộc Toàn cầu hóa - lần thứ nhất bắt đầu từ năm 1492 (năm Christopher Colombus phát hiện ra châu Mỹ); và lần thứ hai từ năm 1800 (sau Cách mạng tư sản Pháp 1789), ta còn là một nước lạc hậu đứng ra ngoài guồng văn minh nhân loại, thì đến cuộc Toàn cầu hóa lần thứ ba, gắn với Kỷ nguyên Thông tin và Cách mạng số, bắt đầu từ năm 2000 (sau sự kiện Bức tường Berlin đổ 1989) (2), ta đã có một cơ hội để bước vào cùng một phòng chờ với nhiều dân tộc khác trên thế giới. Đó là một may mắn của lịch sử. Để không được chậm trễ và bỏ lỡ cơ hội, ta phải biết cách làm bạn với cả thế giới, và phải biết cách đi tắt, đón đầu. Đó là điều khó tránh. Nhưng đi tắt, đón đầu là phải bỏ qua nhiều khâu, nhiều giai đoạn quan trọng, là phải đốt cháy giai đoạn, và khó tránh vi phạm những bước tiến theo quy luật tự nhiên của lịch sử. Kinh nghiệm của những bứt phá, những đại nhảy vọt, những cuộc cách mạng với những cái tên rất kêu, và một hệ thống lý thuyết nằm trong các đường lối, cương lĩnh, nghị quyết đậm đặc ý chí luận đã gây ra bao đứt gẫy với truyền thống, và mất gốc rễ lịch sử.

Do vậy nếu ở các lĩnh vực sản xuất vật chất, khoa học, công nghệ cần phải nhanh gấp đến với các mục tiêu tiên tiến, thì ở lĩnh vực văn hóa, tinh thần lại cần biết cách điều chỉnh, cân bằng để tạo một môi sinh thuận theo tâm lý, thói quen, văn hóa ứng xử, không đột ngột cắt đứt với truyền thống cha ông. ở đây, bài học về khả năng rút ngắn con đường đi và khả năng nhảy vọt của kinh tế, kỹ thuật ở Nhật Bản quả là đầy sức thuyết phục. Bài học của một nước từ giữa thế kỷ XIX trở về trước vẫn có cùng khởi điểm với ta, còn thuộc phạm trù phương Đông lạc hậu. Cho đến nay, theo gương Nhật Bản, một số nước được xem là con rồng của Đông Á và Đông Nam Á cũng đã tiến cùng Nhật vào quỹ đạo xã hội hiện đại.

Bài học Nhật Bản là bài học khẩn trương canh tân đất nước với ý thức tôn trọng, giữ gìn bản sắc và chỗ đứng của riêng mình. Bài học không cắt đứt đột ngột với quá khứ mà biết giữ gìn và tiếp nối quá khứ, trong sự nhận thức vai trò của Khổng giáo và việc sử dụng tầng lớp quý tộc Samurai - nguồn cung cấp đội ngũ cán bộ chủ chốt cho công cuộc canh tân. Bài học về sự huy động sức mạnh tổng hợp của đạo lý truyền thống và khoa học, của văn hóa và công nghệ, được đúc kết trong phương châm “Kỹ thuật phương Tây, đạo lý Nhật Bản”. Nếu công nghệ đưa trình độ sản xuất lên cao thì văn hóa giữ cho mỗi dân tộc vẫn là mình. Những cái giá phải trả nếu chỉ chọn duy nhất con đường Tây Âu hóa, như trong thế kỷ qua, tức là con đường chỉ đơn thuần dựa vào vốn, vào kỹ thuật và công nghệ của nước ngoài mà coi nhẹ hoặc bất chấp văn hóa bản địa, bất chấp nền móng dân tộc như đã diễn ra ở một số khu vực của thế giới thứ ba, sẽ dẫn ngay đến sự suy thoái kinh tế, cùng biết bao hậu quả xã hội.

Khảo sát nền văn hóa dân tộc trong nhiều nghìn năm cho ta thấy việc tiếp nhận ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa mà vẫn giữ được gốc Việt, không bị đồng hóa trong cả nghìn năm Bắc thuộc, không chịu khuất phục trong cả nghìn năm tự chủ. Vẫn dùng chữ Hán, khi chưa có chữ riêng; và ngay cả khi đã có chữ Nôm, vẫn dùng chữ Hán để sáng tạo nên một nền văn chương- học thuật với giòng chủ lưu là giòng yêu nước, qua các tác phẩm đứng ở đỉnh cao kho tàng văn minh dân tộc... Ngót một thế kỷ chịu sự xâm lăng và thống trị của thực dân Pháp, nền văn hóa Việt Nam vẫn không bị đồng hóa; và với chữ Quốc ngữ, đến từ gốc la tinh, được sử dụng, để phổ cập di sản dân gian và Hán-Nôm truyền thống và để tiếp nhận các thành tựu của phương Tây ta đã nhanh chóng tạo được một nền văn chương- học thuật hiện đại, trong gắng gỏi đuổi kịp với trình độ chung của nhân loại. Như vậy là trong khi phấn đấu thoát ra khỏi sự phong bế (ở nhiều cấp độ), ta vẫn tạo được một cái gì vừa là của riêng mình, để không rời xa truyền thống; vừa vẫn có được cái mới - phù hợp với sự tiến triển chung, mà không bị loại ra khỏi các cuộc đua trên đại lộ của văn minh toàn cầu.

Để kết luận: 3 thực trạng, 3 chuyển đổi nằm trong nghĩ ngẫm của tôi về cái thời chúng ta đang sống hôm nay, đó là: từ sự phân cách, chia đôi, chuyển sang hội nhập, cộng sinh - có nghĩa là nhân rộng hơn các tiềm năng, cũng đồng thời phải biết cách ngăn ngừa, hoặc chung sống với các hiểm họa; từ cộng đồng (hoặc “đoàn thể”, theo cách nghĩ của Hoài Thanh, đã dẫn trên) chuyển sang cá nhân - cá nhân trở thành động lực quan trọng cho sự phát triển; nhưng cá nhân cũng sẵn sàng nổi loạn, cho các ước vọng thoát ra khỏi các chuẩn mực của cộng đồng; và từ phong bế (ở các cấp độ khác nhau) đến sự mở rộng giao lưu và hội nhập, buộc trong đi tắt, đón đầu mà không đứt gãy với lịch sử. Đó là xu thế, là hành trình không thể tránh, với các triển vọng, và các giới hạn của nó; cả hai phương diện phải được nhận thức thấu đáo, mới tạo được sự thăng bằng, sự bình ổn trong phát triển./.

Thái Hà, 10-7-2008


(1)Dân khí miền Trung; Tiên phong; số 3-1945.

(2) Theo sách Thế giới phẳng (tóm lược thế giới thế kỷ XXI) của Thomas L. Friedman; Nxb. Trẻ; 2006.

Nguồn:
LinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Thế nào là đổi mới?

    19/05/2018Trường GiangĐổi mới là trào lưu tư tưởng tiến bộ, là xu thế thời đại. Những ai không có tư duy đổi mới, hành động đổi mới thường dễ bị sa vào bảo thủ, duy trì những cái đã lỗi thời. Thậm chí có nhà văn đã phát biểu: "Trong thời đại này, không đổi mới tư duy coi như mù chữ”.
  • Một số vấn đề triết lý hiện đại

    28/12/2015Đỗ Kiên CườngVới tư cách là triết học tự nhiên, vật lý có vai trò quan trọng trong bản thể luận và nhận thức luận. Dưới đây là một số nhận thức cá nhân về các vấn đề triết lý, cũng như mối quan hệ giữa vật lý hiện đại cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Dưới đây là một số nhận thức cá nhân về các vấn đề triết lý, cũng như mối quan hệ giữa vật lý hiện đại với các lĩnh vực khoa học khác...
  • Giao lưu văn hóa trong thời đại toàn cầu hóa

    22/08/2007GS. Hồ Sĩ VịnhGiao lưu văn hóa là một quy luật của thời đại, là hiện tượng phổ biến của xã hội loài người. Nhờ GLVH đúng hướng mà các nước chậm phát triển có cơ hội trở thành nước phát triển. Trong mọi hoạt động văn hóa Ðảng và Nhà nước ta bao giờ cũng nêu cao định đề biện chứng : kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
  • Cảm nghĩ thời đại lúc vào xuân

    29/03/2007Nguyễn Khắc MaiTôi không thể không làm một việc cần thiết: gửi một lời chúc xuân tới quý bạn đọc, những tri kỷ của mình. Thật may mắn, tôi đã tìm được lời chúc xuân rất có ý nghĩa trong một bài thơ của Ngô Thì Nhậm "Nhập Xuân đa giai thụy" (Vào xuân với nhiều điều Đẹp giai, Lành - thụy).
  • Các nguồn lực trong thời đại mới.

    14/08/2003GS. Vũ Văn Tảo nguyên là Vụ trưởng- trợ lý Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo Trần Hồng Quân. Hiện nay đã nghỉ hưu nhưng Giáo sư vẫn còn rất nhiều nhiệt huyết với công cuộc cải cách giáo dục nước nhà. Giáo sư vẫn đi giảng dạy về cách dạy-cách học và quản lý giáo dục theo lời mời của nhiều trường đại học và các CLB.